Thời sự
Cập nhật lúc 05:01 22/06/2025 (GMT+7)
Tiếng nói khai mở dân trí và phản biện từ cố đô Huế

Trong dòng chảy 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam, Báo Tiếng Dân do cụ Huỳnh Thúc Kháng sáng lập tại Huế năm 1927 không chỉ là một tờ báo, mà là biểu tượng của tinh thần phản biện, của ý chí dân tộc và lý tưởng khai sáng.

Tiếng nói khai mở dân trí và phản biện từ cố đô Huế
Cụ Huỳnh làm Chủ nhiệm (người ngồi giữa cầm quạt) chụp tại tòa soạn Báo Tiếng Dân, cũng là trụ sở công ty Huỳnh Thúc Kháng tại Huế. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng

Khai mở dân trí bằng báo chí quốc ngữ

Không phải ngẫu nhiên mà Tiếng Dân ra đời ở Huế - mảnh đất không chỉ là trung tâm chính trị của triều Nguyễn, mà còn là nơi quy tụ tinh hoa học thuật, phong trào yêu nước và tư tưởng canh tân mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XIX. Đây là nơi Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Cao Vân... từng hoạt động và để lại ảnh hưởng sâu đậm.

Ngày 10.8.1927, Tiếng Dân ra số đầu tiên, xác lập một tuyên ngôn rõ ràng: Viết báo vì dân, khai dân trí, thức tỉnh quốc dân. Tờ báo sử dụng chữ quốc ngữ, phổ cập tri thức đến đại chúng, bằng văn phong chừng mực nhưng dễ hiểu, gần gũi mà vẫn sâu sắc. Qua mỗi kỳ phát hành, Tiếng Dân trở thành “lớp học vỡ lòng” cho tư duy phản biện và khai sáng quần chúng.

Biên bản kiểm kê tài sản vật tư, tài liệu của nhà in báo Tiếng Dân thuộc công ty Huỳnh Thúc Kháng do hội đồng kiểm kê tài sản của công ty kiểm kê ngày 30.6.1946. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng
Biên bản kiểm kê tài sản vật tư, tài liệu của nhà in báo Tiếng Dân thuộc công ty Huỳnh Thúc Kháng do hội đồng kiểm kê tài sản của công ty kiểm kê ngày 30.6.1946. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng

Tờ báo phản ánh rõ nét mục tiêu: Không hô hào suông, không đả kích cực đoan, mà lặng lẽ gieo những hạt giống dân quyền, dân trí qua từng bài xã luận, bình luận và tin tức đời sống. Đó là tinh thần báo chí có trách nhiệm và phục vụ tiến bộ.

Điều kỳ lạ là một tờ báo như Tiếng Dân có thể tồn tại gần 16 năm (1927-1943) dưới chế độ kiểm duyệt ngặt nghèo của thực dân Pháp. Trong khi nhiều tờ báo yêu nước bị đình bản sau vài tháng, Tiếng Dân vẫn đứng vững, ra đến 1.766 số. Đó không phải nhờ sự thỏa hiệp, mà là nhờ bản lĩnh, trí tuệ và nghệ thuật viết báo vừa sắc sảo, vừa khôn ngoan.

Cụ Huỳnh nhiều lần bị triệu tập, thẩm tra, thậm chí buộc nộp bài cho ty kiểm duyệt trước khi in. Nhưng Cụ vẫn kiên quyết: "Nếu không có quyền nói tất cả những điều mình muốn nói, thì ít ra cũng giữ cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói". Đó là tinh thần bất khuất, không cam chịu.

Sự chủ động về tài chính là điểm then chốt. Cụ Huỳnh thành lập công ty riêng để xuất bản báo, từ chối mọi sự tài trợ chính trị. Nhờ đó, Tiếng Dân không bị chi phối bởi nhà cầm quyền hay bất kỳ thế lực nào. Việc gây quỹ công khai, minh bạch, thu hút đông đảo cổ đông khắp cả nước, đã làm nên một tờ báo vừa độc lập về tài chính, vừa tự chủ về nội dung.

Nhà báo không thỏa hiệp

Là người đỗ tiến sĩ Nho học, tham gia phong trào Duy Tân, từng bị đày ra Côn Đảo, từng làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, cụ Huỳnh chọn báo chí làm con đường khai sáng, sau khi nhận thấy mọi diễn đàn chính trị dưới thời Pháp chỉ là hình thức. Cụ từ chối danh lợi, rút khỏi Viện Dân biểu năm 1928 để tập trung làm báo.

Ban đầu, Cụ Huỳnh định đặt tên tờ báo Trung Thanh, nhưng sau khi hỏi ý cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh đã đổi tên báo thành Tiếng Dân - tên gọi giản dị nhưng hàm chứa đầy khát vọng là tiếng nói trung thực của nhân dân.

Báo Tiếng Dân số 675 ra ngày 21.3.1934. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng
Báo Tiếng Dân số 675 ra ngày 21.3.1934. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng

Tờ báo đặt trụ sở tại 123 đường Đông Ba, Huế (nay là 193 Huỳnh Thúc Kháng). Với khuôn khổ lớn, nội dung đa dạng gồm: bình luận, chính luận, thơ văn, vịnh sử, dịch thuật, tiểu thuyết có tính giáo dục… Tiếng Dân không chỉ là báo chính trị mà còn là diễn đàn văn hóa. Mỗi trang báo đều có danh ngôn Đông Tây, như một lời nhắn gửi về tư tưởng và đạo đức.

Báo Tiếng Dân lúc đó thu hút nhiều cây bút lớn như Đào Duy Anh, Hải Triều, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Diểu… tạo nên một diễn đàn học thuật sôi nổi ngay giữa lòng chế độ thực dân. Ngay cả những người như Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Nguyễn An Ninh ở ba miền cũng ít nhiều bị ảnh hưởng từ Tiếng Dân.

Không chỉ là tờ báo của trí thức, Tiếng Dân còn tiếp cận được quần chúng nhờ ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu và nội dung gắn với thực tiễn đời sống. Báo viết về người lao động, người nông dân, về bất công xã hội, lạm quyền, nạn đói, sự vô cảm của chính quyền… Chính điều đó khiến tờ báo được lòng dân và trở thành tiếng nói của nhân dân bị áp bức.

Từ 1936 đến 1939, Tiếng Dân ra ba số mỗi tuần, tăng dần ảnh hưởng. Nhưng với tinh thần phản kháng ngày càng rõ nét, chính quyền thực dân không thể chấp nhận. Ngày 21.4.1943, Toàn quyền Đông Dương ra quyết định đình bản Tiếng Dân.

Dù chỉ tồn tại đến năm 1943, nhưng 16 năm sống giữa đàn áp đã đủ để Tiếng Dân trở thành biểu tượng của báo chí yêu nước có trách nhiệm. Không hô hào bạo lực, không khoác lác khẩu hiệu, nhưng gieo những hạt mầm nhận thức lâu dài và sâu sắc. Trong bối cảnh tiếng nói của người Việt bị bóp nghẹt dưới ách thực dân, Tiếng Dân đã khẳng định vị thế như một khúc tráng ca của dân trí, dân quyền, dân khí.

Hơn 80 năm kể từ khi Tiếng Dân bị đình bản, tinh thần mà tờ báo để lại vẫn là một thước đo giá trị của báo chí cách mạng: Trung thực, phản biện, dấn thân và không thỏa hiệp. Trong thời đại mà báo chí đối mặt với vô số thách thức - từ mạng xã hội, tin giả cho đến áp lực thị trường thì di sản của cụ Huỳnh và Tiếng Dân là lời nhắc nhở về bản lĩnh làm nghề và trách nhiệm với xã hội.

Trong thư viện ký ức Báo chí Cách mạng Việt Nam, Tiếng Dân là một chương đặc biệt. Nó không chỉ là tờ báo đầu tiên ở Trung Kỳ, mà còn là minh chứng sống động cho tinh thần khai phóng, dấn thân và độc lập trong làm báo. Nó khơi nguồn một mạch báo chí phản biện và mạch nguồn ấy, đến hôm nay, vẫn chảy mãnh liệt giữa lòng dân tộc.

https://laodong.vn/thoi-su/tieng-noi-khai-mo-dan-tri-va-phan-bien-tu-co-do-hue-1526545.ldo

HOÀNG VĂN MINH (BÁO LAO ĐỘNG)

In
Về đầu
Lượt truy cập: