Ý định vào thăm miền Nam của Bác Hồ
Trong sâu thẳm trái tim mỗi người con đất Việt, hình ảnh Bác Hồ luôn gắn liền với tình yêu thương bao la, đặc biệt là nỗi niềm canh cánh dành cho miền Nam ruột thịt trong những năm tháng đất nước bị chia cắt.
Bức thư được trưng bày ở Bảo tàng Hồ Chí Minh (Hà Nội). Ảnh: Minh Anh
“Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”
Nhà thơ Tố Hữu đã thấu hiểu và viết nên những vần thơ lay động lòng người:
“Ta hiểu: Miền Nam thương nhớ Bác
Tháng ngày mong đợi Bác vô thăm
Ta hiểu: Đêm nằm nghe gió gác
Bác thường trăn trở nhớ miền Nam”
Những câu thơ ấy như một lời tự sự, nói hộ nỗi lòng của Bác, một người cha già luôn đau đáu hướng về đàn con đang quằn quại trong khói lửa chiến tranh. Từ Thủ đô Hà Nội, trái tim Bác chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi nhớ thương đồng bào miền Nam, những con người đang ngày đêm đối mặt với bom đạn kẻ thù, kiên cường bám đất, giữ làng, chiến đấu anh dũng vì sự nghiệp thống nhất non sông. Bác từng khẳng định một cách đanh thép và chan chứa tình cảm: “Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”. Lời khẳng định ấy không chỉ là một câu nói, mà là một chân lý, một tình cảm thiêng liêng, bất di bất dịch, là kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ và hành động của Người. Chính vì tình yêu thương vô bờ bến ấy, Bác đã nhiều lần ấp ủ, lên kế hoạch, tha thiết bày tỏ ý định được vào thăm mảnh đất Thành đồng Tổ quốc, được tận mắt thấy, tận tay ôm những người con miền Nam vào lòng.
Ngay từ những ngày đầu đất nước tạm thời bị chia cắt, ý nguyện vào Nam đã luôn thường trực trong tâm trí Bác. Nhưng vì đại cục, vì sự an nguy của Cách mạng, nhiều lần kế hoạch ấy đành phải gác lại. Đến giữa những ngày cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra vô cùng ác liệt, khi đồng bào, chiến sĩ miền Nam đang gồng mình chịu đựng những trận bom cày, xới, những cuộc hành quân càn quét tàn bạo của kẻ thù, nỗi nhớ thương miền Nam trong Bác càng trở nên da diết. Người lại một lần nữa tha thiết đề nghị Bộ Chính trị sắp xếp cho mình một chuyến đi vào Nam. Bác hiểu rằng, sự có mặt của Người giữa lòng chiến trường sẽ là nguồn động viên tinh thần vô giá, tiếp thêm sức mạnh cho quân và dân miền Nam vững tin chiến đấu.
Tuy nhiên, tình hình chiến sự ngày càng phức tạp, con đường vào Nam đầy rẫy hiểm nguy. Hơn nữa, sức khỏe của Bác lúc này cũng không còn cho phép những chuyến đi dài ngày, gian khổ. Bộ Chính trị, với trách nhiệm bảo vệ an toàn tuyệt đối cho vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, đã nhiều lần cân nhắc và buộc phải đề nghị Bác hoãn chuyến đi. Dù rất thông cảm với quyết định của Trung ương, nhưng khát khao được vào Nam trong Bác vẫn không hề nguôi ngoai. Người lại đưa ra một đề nghị khác, thể hiện sự tha thiết đến tột cùng: “Đường xa, không vào Nam Bộ, thì tôi vào Khu Năm cũng được”. Khu Năm, mảnh đất miền Trung kiên cường, nơi đầu sóng ngọn gió, cũng là một phần máu thịt của miền Nam yêu dấu. Bác muốn được đặt chân lên mảnh đất ấy, được hít thở không khí của chiến trường, được nắm tay những người con đang trực tiếp chiến đấu.
Bức thư tuyệt mật và kế hoạch táo bạo
Đỉnh điểm của ý định vào Nam phải kể đến bức thư “Tuyệt đối bí mật” Bác gửi cho Tổng Bí thư Lê Duẩn vào đầu tháng 3 năm 1968. Bức thư, đề ngày 10 tháng 3 năm 1968, là một minh chứng hùng hồn cho quyết tâm và tình cảm cháy bỏng của Bác. Trong thư, Người viết:
“10.3.1968
Tuyệt đối bí mật
Chú Duẩn kính mến,
Nhớ lại hồi Nô-en năm ngoái, chú có ý khuyên Bác đi thăm miền Nam sau ngày ta thắng lợi hoàn toàn, Bác rất tán thành. Nhưng nay chỉ đổi chữ “sau” thành chữ trước ngày thắng lợi hoàn toàn, tức là đi thăm khi anh em trỏng đang chuẩn bị mở màn thứ ba. Đi thăm đúng lúc đó mới có tác dụng khuyến khích thêm anh em.
Cách đi: Bác sẽ làm công trên một chiếc tàu thủy. Cùng đi sẽ có hai chú Bảo và Kỳ. Việc này Bác tự thu xếp, dễ thôi. Lúc đến, anh em trỏng chỉ phụ trách đón khi tàu cập bến thôi và đưa Bác đến nhà anh Sáu, anh Bảy (1), (2).
Ở lại: Tùy điều kiện mà quyết định, ít nhất là mấy ngày, nhiều nhất cũng chỉ trong một tháng, hoạt động thế nào, sẽ cùng anh em trỏng bàn định.…
Có lẽ chú và đồng chí khác e rằng sức khỏe của Bác không cho phép Bác đi nơi xa. Nhưng thay đổi không khí, hô hấp gió biển và sinh hoạt quần chúng trong hoàn cảnh chiến đấu sẽ giúp sức khỏe tiến bộ mau hơn.
Lịch trình đi thăm - cần mười ngày để chuẩn bị.
Vượt biển độ sáu ngày.
Từ bến tàu đến địa điểm độ dăm hôm.
Vậy nhờ chú tính ngày cho khớp, một mặt cho Bác biết trước để chuẩn bị, một mặt cho anh em trỏng biết để chờ đón.
Để bảo đảm thật bí mật, chú chỉ nên bàn việc này với một số ít đồng chí trong Bộ chính trị.…
Mong chờ chú trả lời.
Chào thân ái và quyết thắng.
B”.
Đọc những dòng chữ này, không ai có thể cầm được nước mắt. Một vị Chủ tịch nước, ở tuổi ngoài bảy mươi, lại sẵn sàng “làm công trên một chiếc tàu thủy”, chấp nhận mọi hiểm nguy, gian khổ để được vào với đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Kế hoạch được Bác vạch ra chi tiết, tỉ mỉ, từ cách đi, người cùng đi, thời gian ở lại, cho đến việc giữ bí mật tuyệt đối. Hình ảnh người thanh niên Nguyễn Tất Thành năm xưa một mình lênh đênh trên biển tìm đường cứu nước như được tái hiện, nhưng lần này, là một người cha già trở về với đàn con trong lửa đạn. Đặc biệt, việc Bác sử dụng từ “trỏng” (trong ấy - một tiếng Nam Bộ đặc trưng) một cách tự nhiên, gần gũi trong thư càng cho thấy tình cảm sâu nặng, sự gắn bó máu thịt của Bác với miền Nam. Nó không phải là một sự vay mượn ngôn ngữ, mà là tiếng nói từ chính trái tim Người, một trái tim luôn hướng về miền Nam.
Hồi ấy, để chi viện cho chiến trường miền Nam, bộ đội ta phải vượt Trường Sơn, hành quân ròng rã bốn, năm tháng trời mới đến được miền Đông Nam Bộ. Vậy mà Bác đã dự định “vượt biển độ 6 ngày”, một kế hoạch táo bạo, thể hiện ý chí và quyết tâm phi thường.
Nỗi đau đáu cho đến phút cuối đời
Thế nhưng, một lần nữa, ý định của Bác lại không thể thành hiện thực. Cuộc chiến ngày càng leo thang, sự khốc liệt của bom đạn Mỹ không chừa một tấc đất. Quan trọng hơn, sức khỏe của Bác ngày một giảm sút. Bộ Chính trị, sau những cân nhắc vô cùng kỹ lưỡng, đành phải một lần nữa kính đề nghị Bác ở lại hậu phương để đảm bảo sức khỏe, tiếp tục lãnh đạo toàn cục cuộc kháng chiến.
Trong một bức thư gửi Trung ương Cục và Quân ủy miền Nam năm 1968, đồng chí Lê Duẩn đã truyền đạt lại tình hình: “Các anh sắp bước vào giai đoạn chiến đấu chưa từng có trong cuộc chiến tranh giải phóng này. Đồng bào miền Nam đau khổ đã nhiều. Bác Hồ hết sức quan tâm theo dõi đợt chiến đấu sắp tới. Bác muốn đích thân vào miền Nam để động viên chiến sĩ, đồng bào, nhưng Bộ Chính trị đề nghị Bác chưa nên đi vì cần giữ gìn sức khỏe cho Bác. Tôi tha thiết mong rằng các đồng chí, cùng chiến sĩ, đồng bào miền Nam sẽ đem hết tinh thần và lực lượng vào trận đánh chiến lược này, giành thắng lợi to lớn nhất để sớm đón Bác vào thăm”. Lời nhắn gửi ấy chứa đựng cả sự nuối tiếc của Bác lẫn niềm tin và kỳ vọng của Trung ương vào thắng lợi cuối cùng để có thể thực hiện được ước nguyện của Người.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, với những đòn sấm sét giáng vào các cơ quan đầu não của Mỹ - Ngụy, đã “làm chấn động cả Lầu Năm Góc”, buộc địch phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Paris. Đó là một thắng lợi chiến lược to lớn, một bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Nhưng Bác vẫn chưa thể vào thăm miền Nam. Và rồi, điều mà không một người dân Việt Nam nào mong muốn đã xảy ra. Năm 1969, trái tim vĩ đại của Người đã ngừng đập, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng, toàn dân. Ước nguyện vào Nam, được thấy ngày đất nước thống nhất, non sông sum họp một nhà của Bác đã không thể thành hiện thực khi Người còn tại thế.
Dù Bác Hồ kính yêu đã đi xa, nhưng ngọn lửa yêu nước, ý chí thống nhất và tình cảm sâu nặng Người dành cho miền Nam vẫn mãi mãi soi đường, dẫn lối cho Cách mạng Việt Nam. Ngọn cờ tư tưởng, thiên tài và đức độ của Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong tâm khảm của triệu triệu người con đất Việt, và đặc biệt là đồng bào miền Nam, vẫn mãi mãi ngân vang những câu hát thiết tha, như một lời tri ân, một lời hứa son sắt: “Ai yêu miền Nam như tấm lòng của Bác/ Có mối tình nào thủy chung, son sắt như tấm lòng của Bác đối với đồng bào miền Nam...”.
https://laodong.vn/lao-dong-cuoi-tuan/y-dinh-vao-tham-mien-nam-cua-bac-ho-1507725.ldo
Nhân Sơn (báo lao động)