Chăm lo lợi ích đoàn viên- chính sách an sinh xã hội của công đoàn
Việt Nam đang hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc tế. Thị trường lao động Việt Nam trong những năm tới sẽ tiếp tục có những thay đổi sâu sắc. Là một đất nước có lợi thế về lao động, Việt Nam cần xây dựng các chính sách hướng đến bảo đảm việc làm bền vững, xây dựng môi trường an toàn, bình đẳng, công bằng cho người lao động (NLĐ), bảo đảm hài hòa quyền và lợi ích hợp pháp của cả người lao động và người sử dụng lao động. Công đoàn Việt Nam- tổ chức đại diện hợp pháp của NLĐ, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn và nâng cao hiệu quả các hoạt động chăm lo lợi ích cho đoàn viên và người lao động (ĐV&NLĐ). Qua đó tạo vị thế của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới, thu hút được đông đảo người lao động tham gia đoàn viên công đoàn, nhất là khi Việt Nam là thành viên chính thức của các Hiệp định thương mại kinh tế thế hệ mới.
.jpg)
Tại Lễ Phát động Tháng Công nhân năm 2017, với sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, lãnh đạo Tổng LĐLĐVN đã kí kết với các đối tác thực hiện Chương trình phúc lợi đoàn viên
Chăm lo lợi ích thiết thực cho ĐV&NLĐ thông qua chức năng tham gia xây dựng, giám sát thực hiện chính sách pháp luật
Những năm qua, các cấp công đoàn đã có nhiều biện pháp thiết thực, chủ động tham gia với các cơ quan chức năng và người sử dụng lao động, xây dựng nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm Y tế và Bảo hiểm Thất nghiệp từng bước đã tạo hành lang pháp lý đảm bảo lợi ích chính đáng cho ĐV&NLĐ; Các chế độ cho người lao động được thực hiện tương đối đầy đủ và kịp thời theo quy định của pháp luật.
Tổng Liên đoàn đã ban hành Chương trình 1468/CTr-TLĐ ngày 09/10/2013 của Tổng Liên đoàn về “Nâng cao chất lượng thương lượng, ký kết và thực hiện có hiệu quả thỏa ước lao động tập thể” và Nghị quyết số 7c/NQ-TLĐ ngày 25/2/2016 của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn về “Chất lượng bữa ăn ca của người lao động”... Công đoàn các cấp tập trung, quan tâm đến việc thương lượng với NSDLĐ về cam kết thực hiện các nội dung cao hơn Luật quy định đã phát huy hiệu quả chăm lo lợi ích thiết thực cho đoàn viên công đoàn tạo được sự đồng tình, phấn khởi của ĐV&NLĐ. Các hoạt động chăm lo lợi ích cho ĐV&NLĐ cũng nhận được sự đồng tình của người sử dụng lao động, các cấp chính quyền địa phương và Công đoàn cơ sở tại đơn vị, doanh nghiệp.
Các công đoàn cơ sở đã tham gia sửa đổi, bổ sung, hoặc ký mới được nhiều bản thỏa ước có lợi hơn cho người lao động làm cơ sở cho hàng triệu đoàn viên được hưởng lợi; chủ động phối hợp với người sử dụng lao động, người đứng đầu cơ quan, đơn vị rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
Để cụ thể hóa mục tiêu, Tổng LĐLĐVN đã ban hành "Chương trình phúc lợi cho đoàn viên công đoàn và người lao động". Sau hơn một năm tổ chức thực hiện Nghị quyết của BCH Tổng Liên đoàn về triển khai hoạt động công đoàn “Năm vì lợi ích đoàn viên” và Chương trình “Phúc lợi cho đoàn viên công đoàn và người lao động” được cả hệ thống chính trị quan tâm đã huy động được các cấp, các ngành, các đơn vị nhiệt tình tham gia cùng tổ chức Công đoàn Việt Nam chăm lo đời sống vật chất và tinh thẩn cho đoàn viên và người lao động góp phần tạo môi trường ổn định cho kinh tế - xã hội đất nước; đoàn viên gắn bó hơn với tổ chức của mình, người lao động nhận thức đầy đủ hơn về lợi ích khi gia nhập Công đoàn Việt Nam.
Tổng Liên đoàn đã ký thỏa thuận hợp tác với 18 tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty và doanh nghiệp có quy mô lớn. Các cấp công đoàn thường xuyên đẩy mạnh tuyên truyền, vận động sự ủng hộ, trợ giúp của các doanh nghiệp đã ký thỏa thuận thực hiện "Chương trình phúc lợi đoàn viên và người lao động", các cấp chính quyền, đoàn thể và các nhà hảo tâm trong xã hội nhằm có thêm các nguồn tài chính cho hoạt động xã hội của công đoàn thăm hỏi, tặng quà, trợ giúp đoàn viên, người lao động có hoàn cảnh khó khăn. Các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương và tương đương, Công đoàn các Tổng Công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở và công đoàn cơ sở ký kết 1.521 thỏa thuận với các doanh nghiệp đang hoạt động tại địa phương, ngành mình.
Về cơ bản các thỏa thuận cung cấp các sản phẩm, dịch vụ với chính sách ưu đãi giảm giá từ 5% đến 25% cho ĐV&NLĐ; nhiều doanh nghiệp trong thỏa thuận còn cam kết hỗ trợ Công đoàn 1% doanh thu bán hàng để tăng nguồn quỹ hoạt động xã hội của Công đoàn. Đây là hoạt động mới, mang lại lợi ích cho cả các bên tham gia thực hiện nhằm khai thác lợi thế của mỗi bên. Đến nay, theo báo cáo chưa đầy đủ trong hệ thống đã có 3.041.529 đoàn viên được sử dụng các sản phẩm, dịch vụ do các đơn vị đối tác cung cấp, giá trị hưởng lợi hơn 975,802 tỷ đồng. Trong đó, có 113.182 đoàn viên sử dụng dịch vụ khách sạn, du lịch của công đoàn cung cấp; 47.736 đoàn viên tham gia học tập tại các trường đại học, trường trung cấp, cơ sở giáo dục nghề nghiệp của công đoàn.
Các mô hình Tết Sum vầy, Mái ấm Công đoàn, Quỹ trợ vốn cho công nhân lao động nghèo tự tạo việc làm.. ngày càng phát huy hiệu quả; các cấp Công đoàn đã chủ động, sáng tạo nhiều cách làm hay chăm lo cho đoàn viên và người lao động.
Hoạt động cho vay vốn tự tạo việc làm từ các nguồn quỹ đã có 72.082 đoàn viên công đoàn được vay, với số tiền 803,553 tỷ đồng.Chương trình “Mái ấm công đoàn”: Có 6.331 đoàn viên công đoàn được hỗ trợ với số tiền 154,828 tỷ đồng. Các quỹ xã hội, từ thiện các cấp công đoàn đã kịp thời tổ chức thăm hỏi ốm đau, trợ cấp khó khăn cho 1.275.630 đoàn viên với số tiền 565,235 tỷ đồng. Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao và du lịch của tổ chức công đoàn: Có 8.042.412 đoàn viên tham gia, giá trị hưởng lợi hơn 1.675,234 tỷ đồng.

Tết Sum vầy đã trở thành mô hình hoạt động hàng năm của tổ chức Công đoàn
Đẩy mạnh hoạt động chăm lo lợi ích thiết thực cho đoàn viên và người lao động
Năm năm tới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; tích cực tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tổ chức và hoạt động của công đoàn tiệm cận nhiều hơn với các tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, yêu cầu, đòi hỏi của đoàn viên, người lao động đối với tổ chức Công đoàn ngày càng cao. Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam. Lực lượng lao động dịch chuyển nhiều hơn, yêu cầu việc làm bền vững từng bước thay cho việc làm ổn định, doanh nghiệp nhà nước giảm, doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước phát triển đa dạng, tăng đơn vị sự nghiệp tự chủ, lao động khu vực phi chính thức tăng đòi hỏi mô hình tổ chức và nhiệm vụ của các cấp công đoàn cần được chủ động điều chỉnh linh hoạt. Tổ chức Công đoàn phải phát huy hiệu quả cao nhất các chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ dành cho công nhân, viên chức, lao động tạo thành nguồn lực mới để Công đoàn thực sự là tổ chức đại diện tốt nhất của người lao động.
Đại hội XII Công đoàn Việt Nam xác định mục tiêu nhiệm kì 2018-2023: Đổi mới căn bản hoạt động chăm lo cho đoàn viên, người lao động theo hướng phát triển các chương trình xuyên suốt toàn hệ thống như một chính sách an sinh xã hội của công đoàn phục vụ trực tiếp và đúng đối tượng, thực hiện đồng bộ giữa trách nhiệm và thụ hưởng, gắn kết chặt chẽ hơn giữa đoàn viên và tổ chức công đoàn.
Đẩy mạnh Chương trình phúc lợi đoàn viên công đoàn, triển khai có hiệu quả các thỏa thuận hợp tác, chủ động tìm kiếm đối tác mới với các sản phẩm dịch vụ mới, tổ chức đàm phán, ký kết mang lại nhiều lợi ích tốt hơn cho đoàn viên công đoàn. Mỗi cấp công đoàn phải xây dựng đề án, kế hoạch thực hiện Chương trình phúc lợi đoàn viên để cụ thể hóa việc thực hiện lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích chính trị mà tổ chức Công đoàn mang lại cho người đoàn viên trong địa bàn, lĩnh vực, tổ chức mình. Các thiết chế của Công đoàn phải có chính sách ưu đãi, giảm giá cho đoàn viên công đoàn, đảm bảo thực sự phục vụ đoàn viên công đoàn Việt Nam.
Tập trung cải thiện các nhu cầu đời sống thiết yếu của công nhân, viên chức, lao động. Đầu tư xây dựng, phát huy hiệu quả thiết chế của tổ chức công đoàn ở các khu công nghiệp, khu chế xuất trở thành biểu tượng hành động nâng cao đời sống công nhân. Các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố chủ động nghiên cứu, đề xuất với chính quyền cùng cấp thực hiện tốt chính sách nâng cao chất lượng cuộc sống cho công nhân, viên chức, lao động, nhất là vấn đề về nhà ở, nhà trẻ, giá điện, nước... Công đoàn cơ sở tập trung vận động người sử dụng lao động thực hiện tốt các hoạt động chăm lo, chia sẻ khó khăn, thực hiện các phúc lợi cho người lao động, như tham quan, du lịch, chăm sóc sức khỏe...
Tích cực tham gia phát triển việc làm bền vững cho người lao động, là một trong những nhiệm vụ quan trọng của tổ chức công đoàn. Tập trung đầu tư nghiên cứu, khảo sát, dự báo tình hình tác động đến việc làm của người lao động. Các cấp công đoàn cập nhật, cung cấp thông tin về việc làm; tham gia xây dựng cơ chế hỗ trợ đoàn viên tìm kiếm việc làm mới, nhất là lao động nữ. Thành lập Chương trình học bổng toàn phần, bán phần dành cho công nhân học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp. Chuyển các cơ sở dạy nghề của công đoàn sang chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính và tổ chức. Nâng cao chất lượng các cơ sở dạy nghề theo hướng gắn kết với doanh nghiệp, đào tạo theo đơn đặt hàng, đào tạo tại chỗ, đào tạo theo nhu cầu xã hội; thực hiện nghiêm túc chỉ tiêu dạy nghề đã được giao, ưu tiên đào tạo nghề cho đoàn viên mất việc làm. Tiến hành sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề hoạt động không hiệu quả để tập trung xây dựng một số cơ sở dạy nghề chất lượng cao.
Hoàn thiện, nâng cao hiệu quả các mô hình chăm lo lợi ích thiết thực cho đoàn viên công đoàn. Nghiên cứu xác định các trường hợp khó khăn bất khả kháng của số đông đoàn viên, người lao động và hình thành cơ chế để hỗ trợ kịp thời. Phát triển Chương trình “Tết Sum vầy”, Chương trình "Mái ấm Công đoàn”, Quỹ xã hội từ thiện “Tấm lòng vàng Lao động”. Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay vốn từ nguồn Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm; các tổ chức, chương trình tài chính vi mô công đoàn, trọng tâm phục vụ đoàn viên công đoàn. Hoạt động xã hội của công đoàn đảm bảo nguyên tắc: Phát huy tính cộng đồng và sự giám sát của đông đảo người lao động; hình thành lực lượng tự nguyện tham gia công tác xã hội. Chú trọng đúc kết, đề xuất nhân rộng những mô hình mới, mô hình đã được tổng kết thực tiễn ở ngành, địa phương.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XI về “Chất lượng bữa ăn ca của người lao động”, đưa vào nội dung đối thoại, thương lượng trong các thỏa ước lao động tập thể, tăng cường kiểm tra, giám sát về an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng bữa ăn ca trong các bếp ăn tập thể và các doanh nghiệp dịch vụ cung cấp bữa ăn ca công nghiệp; nghiên cứu kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội quy định về chất lượng bữa ăn giữa ca của người lao động.